Cấp sổ đỏ cho những hộ gia đình sử dụng đất chưa hoặc không có giấy tờ như thế nào?
17:30 - 08/07/2024 51
Theo quy định, các hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất trước ngày 18/12/1980, nếu được UBND cấp xã xác nhận không có tranh chấp đất đai, lô đất đó sẽ được cấp phép Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho chủ sở hữu của nó. Cùng vnland tìm hiểu chi tiết về quy định cấp phép, chứng nhận sổ nhé!
Cụ thể, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với các hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 137 của Luật này, không nằm trong các trường hợp quy định tại Điều 139 (Giải quyết trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi phạm pháp luật đất đai trước ngày 01/7/2014) và Điều 140 của Luật này (Cấp quyền sử dụng, quyền sở hữu đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không xin phép) được thực hiện theo quy định của Luật này:
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trước ngày 18/12/1980 và được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận là không có tranh chấp thì được cấp GCNQSDĐ.
Những trường hợp sử dụng đất ổn định mà không có giấy tờ quy định tại Điều 137, và không vi phạm pháp luật đất đai, sẽ được xem xét cấp GCNQSDĐ.
Quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không có giấy tờ phải tuân thủ các quy định đảm bảo các diện này không thuộc diện vi phạm, có tranh chấp về pháp luật cũng như giao đất chưa đúng thẩm quyền (theo luật Đất Đai 2004).
1. Các hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất trước ngày 18/12/1980, nếu được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không có tranh chấp, sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định như sau:
a) Với các thửa đất có nhà ở hoặc nhà và công trình phục vụ đời sống, nếu diện tích thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức công nhận đất ở theo quy định tại khoản 5 Điều 141 của Luật này, diện tích đất ở được công nhận sẽ tương ứng với hạn mức công nhận đất ở và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Trường hợp diện tích đất đã xây dựng nhà ở hoặc nhà và công trình phục vụ đời sống vượt quá hạn mức công nhận đất ở quy định tại điểm này, diện tích đất ở sẽ được công nhận theo diện tích thực tế đã xây dựng. Người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất cho phần diện tích vượt hạn mức công nhận đất ở tại điểm này.
b) Đối với những thửa đất có nhà ở hoặc nhà và công trình phục vụ đời sống, nếu diện tích của thửa đất này nhỏ hơn hạn mức được công nhận là đất ở theo quy định tại khoản 5 Điều 141 của Luật này, thì toàn bộ diện tích thửa đất sẽ được xác định là đất ở và không phải nộp tiền sử dụng đất;
c) Đối với những thửa đất sử dụng cho mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, thì diện tích thực tế sử dụng sẽ được công nhận là đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ; hình thức sử dụng đất được công nhận là giao đất có thu tiền sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất sẽ ổn định lâu dài;
d) Đối với phần diện tích đất còn lại sau khi đã được xác định theo quy định tại điểm a và điểm c khoản này, thì sẽ được xác định dựa trên hiện trạng sử dụng đất.
Nếu đất sử dụng không phải là đất ở, hiện trạng đất thuộc đất phi nông nghiệp thì sẽ được cấp giấy chứng nhận và được công nhận sử dụng theo điểm c, quy định khoản này.
Nếu hiện trạng sử dụng thuộc đất nông nghiệp, sẽ được công nhận dưới hình thức Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; nếu người sử dụng đất có nhu cầu công nhận vào mục đích đất phi nông nghiệp mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn, thì sẽ được công nhận vào mục đích đó và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Các hộ gia đình và cá nhân đã sử dụng đất từ ngày 18/12/1980 đến trước ngày 15/10/1993, nếu hiện tại được UBND cấp xã xác nhận không có tranh chấp tại khu vực đất đó, sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất như sau:
a) Với các thửa đất có nhà ở hoặc công trình phục vụ sinh hoạt, nếu diện tích thửa đất này bằng hoặc lớn hơn hạn mức đất ở được công nhận theo khoản 5 Điều 141 của Luật này, diện tích đất ở sẽ được công nhận theo hạn mức và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Nếu diện tích đất đã xây dựng nhà ở hoặc công trình phục vụ sinh hoạt lớn hơn hạn mức đất ở quy định tại điểm này, diện tích đất ở được chấp nhận theo S thực tế đã xây dựng. Tuy nhiên, cần thực hiện nộp tiền sử dụng đất cho phần vượt hạn mức theo quy định của điểm này.
b) Đối với các thửa đất có nhà ở và các công trình phục vụ sinh hoạt, nếu diện tích của thửa đất nhỏ hơn ngưỡng được công nhận là đất ở quy định tại Điều 141 Khoản 5 của Luật này, diện tích đất ở sẽ bao gồm toàn bộ diện tích của thửa đất đó và không phải nộp tiền sử dụng đất;
c) Đối với các thửa đất được sử dụng cho mục đích sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất thương mại, dịch vụ sẽ được công nhận theo quy định tại điểm c Khoản 1 của Điều này;
d) Đối với các phần diện tích đất còn, lại sau khi xác định cụ thể theo các quy định (điểm a & c của khoản này), đất được xác định dựa trên tình trạng sử dụng đất.
Trường hợp sử dụng đất hiện tại là đất phi nông nghiệp không được phép sử dụng làm đất ở, sẽ được công nhận theo quy định tại điểm c Khoản này.
Đối với trường hợp đất được sử dụng là đất nông nghiệp, người sử dụng đất được công nhận dưới hình thức Nhà nước giao đất, mà không thực hiện thu tiền hoặc các khoản phí liên quan đến việc sử dụng đất. Nếu người sử dụng đất có nhu cầu công nhận mục đích sử dụng đất là phi nông nghiệp và phù hợp với quy hoạch địa phương, quy hoạch tổng thể, quy hoạch theo khu vực, hay quy hoạch theo vùng nông thôn, tất cả sẽ được công nhận cho mục đích, thực hiện nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nhà nước Việt Nam.
Nguồn: chinhphu.vn
Trong trường hợp các cá nhận, hộ gia đình sử dụng đất (từ 15.10.1993 → trước ngày 1.7.2014), được xác nhận không dính tranh chấp từ UBND, họ sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất như sau:
a) Đối với các thửa đất có nhà ở hoặc các công trình phục vụ đời sống, nếu diện tích thửa đất bằng hoặc lớn hơn hạn mức giao đất được quy định tại điều 195 (khoản 2) và 196 (khoản 2) trong luật này, diện tích đất ở sẽ được công nhận theo hạn mức giao đất ở. Trong trường hợp diện tích đã xây dựng nhà ở hoặc các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở, thì diện tích đất ở được công nhận theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở hoặc các công trình phục vụ đời sống đó.
b) Đối với các thửa đất có nhà ở hoặc các công trình phục vụ đời sống, nếu diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 của các điều 195 và 196 của bộ luật này, thực thi toàn bộ những diện tích thửa đất sẽ được công nhận là đất thuộc diện đất ở.
c) Đối với đất sử dụng vào hoạt động, kinh doanh không phải là đất nông nghiệp, kinh doanh, dịch vụ, đất sản xuất phi nông nghiệp, đất kinh doanh, đất dịch vụ quy định tại Điều c khoản 1 Điều này;
d) Đối với diện tích đất còn lại sau khi đã xác định theo quy định tại điểm a và điểm c của khoản này, diện tích này sẽ được xác định theo tình trạng sử dụng đất.
Trường hợp tình trạng sử dụng đất là đất phi nông nghiệp, không phải là đất ở, sẽ được công nhận theo quy định tại điểm c của khoản này.
Trong trường hợp, đất sử dụng là đất nông nghiệp, thì sẽ được công nhận và Nhà nước thực hiện giao đất không thu tiền sừ dụng đất loại hình này. Nếu người sử dụng đất có nhu cầu chuyển đổi thành mục đích đất phi nông nghiệp và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch nông thôn, sẽ được công nhận theo mục đích đó và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
đ) Người sử dụng đất, khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản liên quan theo quy định này, có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật."
4. Trong trường hợp một thửa đất được sử dụng chung bởi nhiều hộ gia đình hoặc cá nhân, hạn mức đất ở được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này sẽ được tính bằng tổng hạn mức đất ở của các hộ gia đình hoặc cá nhân đó.
Đối với những thửa đất có nhà ở, nhà ở và các công trình phục vụ đời sống, mà Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất đã xác nhận sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15/10/1993, hạn mức đất ở sẽ được xác định theo các quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này đối với từng thửa đất đó.
5. Các hộ gia đình và cá nhân thuộc đối tượng được nhận đất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này, đã sử dụng đất ở hoặc đất phi nông nghiệp trước ngày 01/7/2014 mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật này, và đang đăng ký thường trú
tại các địa phương thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hiện nay được UBND cấp xã tại địa phương có đất xác nhận không có tranh chấp sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, đồng thời được miễn phí sử dụng đất.
Diện tích đất được xác định khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất sẽ tuân thủ các quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 của Điều này.
6. Gia đình và cá nhân đang sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp và không có tranh chấp tại xã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo hình thức Nhà nước giao đất miễn phí, cho diện tích đất đang sử dụng và không vượt quá giới hạn quy định đối với cá nhân tại Điều 176 của Luật này. Thời hạn sử dụng đất tính từ ngày cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; diện tích đất nông nghiệp còn lại (nếu có) phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước;
7. Việc áp dụng các quy định về giới hạn đất ở của địa phương để xác định diện tích đất ở trong các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 của Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật vào thời điểm người sử dụng đất nộp hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
8. Đối với các hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng đất theo các điều khoản 1 đến 6 của Luật này, nhưng không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, họ được phép tạm thời sử dụng đất theo tình trạng hiện tại cho đến khi Nhà nước thu hồi đất và yêu cầu kê khai đăng ký đất đai theo quy định.
9. Nhà nước có trách nhiệm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với các trường hợp đã đăng ký và đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật này.